Combo Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ ( 1615 -1919 ) và 100 Câu Hỏi Về Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ - Phạm Thị Kiều Ly
Khuyến mãi & ưu đãi
100% sách bản quyền
Đổi trả miễn phí*
Tác giả | Phạm Thị Kiều Ly |
Đơn vị phát hành | Omega Plus |
Số lượng | 2 cuốn |
LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ ( 1615 - 1919)
NỘI DUNG CUỐN SÁCH
“Lịch sử chữ quốc ngữ, 1615-1919” là tác phẩm có tầm vóc và bề thế nhất từ trước đến nay dựa trên nguồn tư liệu phong phú về lịch sử hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ, mà bất cứ người Việt Nam nào cũng nên đọc để hiểu về nguồn cội chữ viết mà chúng ta đang dùng hằng ngày.
Tác phẩm này được phát triển từ chính luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Thị Kiều Ly, bảo vệ năm 2018 tại Đại học Sorbonne Nouvelle (Cộng hòa Pháp) và được trao giải thưởng luận án xuất sắc năm 2020 của GIS Asie (Groupement d’intérêt scientifique Études asiatiques - Nhóm nghiên cứu khoa học về châu Á).
Sau khi bảo vệ, tác giả đã tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung luận án và xuất bản ở Pháp năm 2022 dưới tựa đề “Histoire de l’écriture romanisée du vietnamien (1615-1919)” (Lịch sử chữ quốc ngữ, 1615-1919). Với tâm niệm cần phổ biến kiến thức khoa học tới đại chúng, năm 2023, cô cũng đã cùng họa sĩ Tạ Huy Long xuất bản cuốn truyện tranh về lịch sử chữ quốc ngữ dành cho trẻ em.
Và năm 2024, đúng dịp kỉ niệm 400 năm giáo sĩ Alexandre de Rhodes và Maiorica đến Việt Nam, ấn bản tiếng Việt của công trình “Lịch sử chữ quốc ngữ, 1615-1919” chính thức được xuất bản.
Kế thừa và tiếp bước các thế hệ học giả tiền bối, tác giả đã dày công trang bị kiến thức về tiếng La-tinh, tiếng Bồ Đào Nha và về cổ văn châu u để có thể tiếp cận, sưu tầm và phân tích các văn bản được viết bằng tiếng La-tinh, Bồ Đào Nha, Ý nằm rải rác ở văn khố ở Roma, Paris, Lisbon, Ávila, và Madrid. Như cô đã từng chia sẻ với báo Người Đô Thị:
“Tôi đã trải qua hầu hết những cung bậc cảm xúc của một người học trở thành nhà nghiên cứu chuyên nghiệp: hạnh phúc vì tìm được tài liệu, căng thẳng, lo âu dò dẫm tìm đường đi cho công trình của mình, mất ngủ. Hàng ngày mình đối mặt với chiếc máy tính của mình và các văn bản viết tay. Nhưng trên tất cả, tôi đã sống những năm tháng hạnh phúc cùng đề tài mình đam mê, sống trong tình bạn nghiên cứu ở khu Sorbonne, hay những trải nghiệm tuyệt vời khi đi tìm tài liệu ở các khu lưu trữ ở Roma (Vatican), Lisboa (Bồ Đào Nha), Madrid, Avila (Tây Ban Nha)”.
Có thể nói, đây là một thành tựu nghiên cứu đầy đủ nhất từ trước cho đến nay về lịch sử chữ quốc ngữ, với khung thời gian trải dài hơn 300 năm, từ năm 1615 – thời điểm các giáo sĩ dòng Tên tới truyền giáo ở Đàng Trong và kết thúc vào năm 1919 – năm cuối cùng của khoa thi Hội tổ chức ở kinh đô Huế.
Một số đóng góp quan trọng và mới của công trình này:
- Công trình này đặt sự sáng tạo ra chữ quốc ngữ trong bối cảnh chung của ngữ học truyền giáo trên toàn thế giới thay vì chỉ liên hệ với quá trình văn tự La-tinh hóa tiếng Nhật và tiếng Trung như các công trình trước đó.
- Phục dựng lại được khá chi tiết thời kỳ đầu tạo ra chữ quốc ngữ nhờ việc sưu tầm và phân tích một số lượng lớn các văn bản viết tay.
- Chỉ ra được những mốc thời gian quan trọng như chữ La-tinh đầu tiên xuất hiện trong văn bản năm 1617, hay “hội nghị” đầu tiên về chữ Quốc ngữ của các Thừa sai ở Macao (Trung Quốc) năm 1630 hay khi Gaspar do Amaral soạn từ vựng năm 1634.
- Nhấn mạnh vai trò của António de Fontes, linh mục người Bồ Đào Nha đến Đàng Trong năm 1624, ông là cầu nối của chữ quốc ngữ từ Đàng Trong ra Đàng Ngoài.
- Chỉ ra sự thay đổi vai trò của chữ quốc ngữ: từ một công cụ học tiếng của các thừa sai người nước ngoài sang công cụ trao đổi thông tin giữa các giáo sĩ người nước ngoài và linh mục, giáo dân người Việt sau khuyến nghị của Giám mục Deydier năm 1685.
- Chỉ ra vai trò của các chủng sinh người Việt trong công cuộc soạn từ điển Việt - La năm 1772-1773. Chúng ta thường gán tác giả cho cuốn từ điển này là Pigneaux de Béhaine, nhưng thực tế đó là tư duy làm từ điển của người bản xứ...
Ngoài ra, dù cho sự hình thành chữ quốc ngữ nằm trong trào lưu chung của ngữ học truyền giáo, nhưng việc chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của Việt Nam là một trường hợp đặc biệt ở Đông Á, nên không thể thoát khỏi những tác động của bối cảnh chính trị, xã hội. Vì vậy, bên cạnh việc đúc kết lịch sử chữ viết trong quãng thời gian gần 300 năm, tác giả Phạm Thị Kiều Ly còn lồng vào đó những câu chuyện không kém phần quan trọng là lịch sử truyền giáo, lịch sử - chính trị Việt Nam từ phong kiến tới thời thuộc địa và bảo hộ, và phần nào đó là những câu chuyện về lịch sử báo chí, văn hóa, giáo dục ở Việt Nam một thời đoạn.
Như GS Dan Savatovsky - Viện Nghiên cứu Lịch sử các lý thuyết ngôn ngữ, Đại học Sorbonne Nouvelle, chia sẻ: “Cuốn sách không chỉ tập trung vào lịch sử ngôn ngữ - chính xác hơn là tập trung vào khía cạnh ngữ học truyền giáo tại châu Á như Otto Zwartjes và những người khác quan niệm - và cuốn sách này còn đề cập đến các liên kết mà lịch sử nội tại của Việt ngữ (mô hình ngữ pháp hóa) gắn với lịch sử chính trị và văn hóa của đất nước (lịch sử khách quan của nó). Tác phẩm còn cho thấy mối quan tâm sâu sắc đối với lịch sử của chính ngôn ngữ, đối với lịch sử âm vị học của tiếng Việt. Và ở đây, bên cạnh những phẩm chất của một nhà sử học nghiên cứu ngôn ngữ, Phạm Thị Kiều Ly cũng chứng tỏ những phẩm chất không thể phủ nhận của một nhà ngôn ngữ học…”.
Ý NGHĨA BÌA SÁCH:
Hình ảnh minh hoạ những cá nhân đã có những đóng góp quan trọng vào quá trình hình thành và phát triển chữ quốc ngữ trong giai đoạn từ 1615 đến 1919.
. Hàng trên là các thừa sai dòng Tên: Cristoforo Borri, Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes, António de Fontes, Gaspar do Amaral, António Barbosa.
. Hàng dưới là: François Deydier, Pierre Pigneaux de Béhaine, Philipphê Bỉnh, Jean-Louis Taberd, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh.
NỘI DUNG CHÍNH CỦA TÁC PHẨM:
Chương 1: Quá trình mô tả các ngôn ngữ trên thế giới
Chương 2: Phiên âm tiếng Đàng Trong bằng chữ La-tinh (1615-1631)
Chương 3: Phiên âm tiếng Đàng Ngoài bằng chữ La-tinh
Chương 4: Hệ thống nguyên âm trong Dictionarium (Từ điển) của de Rhodes (1651) và chuẩn hóa chính tả
Chương 5: Chữ quốc ngữ thời kỳ Hội Thừa sai Paris (1658-1858)
Chương 6: Chữ quốc ngữ thời thuộc địa
Với cách viết như kể chuyện lịch sử lồng những phân tích ngôn ngữ chắc chắn cuốn sách “Lịch sử chữ quốc ngữ, 1615-1919” sẽ giúp cho mỗi người Việt Nam dễ dàng nắm bắt và hiểu hơn về nguồn cội chữ viết mình đang sử dụng hằng ngày.
TÁC PHẨM RA MẮT CÙNG LÚC
Nhân dịp này, nhà nghiên cứu Phạm Thị Kiều Ly và Omega+ cũng ra mắt đồng thời tác phẩm “100 câu hỏi về lịch sử chữ quốc ngữ” như một cách tiếp cận khác về chữ quốc ngữ dưới dạng hỏi đáp.
Đôi khi trong chúng ta có ai tò mò về chữ quốc ngữ, dù cho ta không có thời gian đọc cả một cuốn sách, nhỡ đâu ta có thể tìm thấy câu trả lời trong cuốn sách này. Tác giả cố gắng đặt mình vào vị trí của độc giả và của người Việt Nam nói chung, để tự vấn mình những vấn đề xoay quanh lịch sử chữ viết mà chúng ta dùng hằng ngày: hoàn cảnh ra đời, quá trình hình thành, phát triển, cũng như những nhân vật có nhiều đóng góp quan trọng chữ quốc ngữ. Độc giả cũng có thể tìm thấy trong cuốn sách này những giải thích về logic chính tả của chữ quốc ngữ và cả những biến chuyển lớn lao trong đời sống xã hội, văn hóa - giáo dục…
Các tác phẩm thuộc Tủ sách “Hiểu Việt Nam qua các tư liệu Pháp ngữ” từ các tác giả Việt Nam đương đại.
CUỐN SÁCH DÀNH CHO ĐỐI TƯỢNG NÀO?
Cuốn sách "Lịch sử chữ Quốc ngữ" là một tài liệu học thuật và giáo dục, có thể hữu ích cho nhiều đối tượng khác nhau, bao gồm:
- Những người đang học các ngành ngôn ngữ học, văn học, và lịch sử. Cuốn sách cung cấp thông tin chi tiết về sự phát triển của chữ Quốc ngữ, giúp họ hiểu rõ hơn về ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam.
- Nhà nghiên cứu: Các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ học, văn hóa, và lịch sử Việt Nam sẽ tìm thấy trong cuốn sách những dữ liệu quan trọng và các phân tích chuyên sâu về quá trình hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ.
- Người yêu thích lịch sử và văn hóa: Cuốn sách cũng dành cho những ai có hứng thú với lịch sử và văn hóa Việt Nam, muốn hiểu rõ hơn về nguồn gốc và sự phát triển của chữ viết mà người Việt đang sử dụng.
- Cuốn sách "Lịch sử chữ Quốc ngữ" không chỉ giới hạn cho những đối tượng chuyên môn mà còn mở rộng cho bất kỳ ai quan tâm đến sự phát triển của ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam.
ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CUỐN SÁCH
“ Các thay đổi về ngữ âm sau này có ảnh hưởng đến tiếng Việt cũng được Phạm Thị Kiều Ly mô tả trong tác phẩm của mình thông qua những giai đoạn trung gian với minh chứng là các cuốn từ điển ra đời liên tiếp trong thế kỷ XVIII ( Pigneaux de Béhaine), đầu thế kỷ XIX ( Taberd) và cuối thế kỷ XIX ( Aubaret, Theurel, v.v…). Phương pháp tiến hành ở đây mang tính nối tiếp, tuy nhiên, thay vì tập trung vào một giai đoạn rộng hơn, dù ít tài liệu cần được phân tích hơn và cho đến nay vẫn bị coi nhẹ nhưng xứng đáng được làm rõ, trên hết vì quá trình phát triển vẫn diễn ra trong một thời gian dài, những chuyển hóa của hệ thống vần và nhất là các phụ âm là nền tảng của tiếng Việt ngày nay. Dưới góc độ này, công trình của Phạm Thị Kiều Ly sẽ là một dấu son.
Dan Savatovsky
( Đại học Sorbonne Nouvelle,
Viện Nghiên cứu Lịch sử các lý thuyết ngôn ngữ)
TRÍCH ĐOẠN HAY TRONG CUỐN SÁCH
CHỮ QUỐC NGỮ: MỘT TRƯỜNG HỢP ĐỘC ĐÁO TẠI ĐÔNG Á
Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn lập, có thanh điệu, thuộc nhóm Việt-Mường ( hay còn gọi là Vietic) của ngữ hệ Nam Á, điểm độc đáo của nó so với các ngôn ngữ của các nước thuộc lục địa Viễn Đông là có một hệ thống chữ cái kiểu La-tinh: chữ quốc ngữ. Chữ Hán vẫn được sử dụng trong các nghi lễ ( tôn giáo ) và hiện diện trên các di tích Phật giáo, nhât slaf ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam, nhưng chữ viết chính thống là chữ viết “ La-tinh hóa” dùng trong đời sống hằng ngày, trong báo chí và sách vở hoặc trong giảng dạy. Việc sử dụng một bảng chữ cái vay mượn phần lớn từ bảng chữ cái La-tinh và nhiều ngôn ngữ nhóm Roman mà chủ yếu từ bảng chữ cái tiếng Bồ Đào Nha, là một hiện tượng hiếm gặp ở các quốc gia châu Á chịu ảnh hưởng về chính trị và văn hóa Trung Hoa và thấm nhuần Khổng giáo. Bảng chữ cái độc đáo này được sáng tạo vào nửa đầu thế kỷ XVII nhờ công lao của các nhà truyền giáo dòng Tên cư trú ở Đàng Trong, rồi Đằng Ngoài, ( bên cạnh việc tạo ra bảng chữ cái), họ còn tiến hành thêm các công trình mô tả tiếng Việt - những công trình liên quan đến thứ gọi là ngữ pháp hóa.
100 Câu Hỏi Về Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ - Phạm Thị Kiều Ly
NỘI DUNG CHÍNH
Bản tóm tắt hành trình thăng trầm của chữ quốc ngữ dưới dạng 100 câu hỏi - đáp
Lịch sử chữ quốc ngữ không chỉ là nan đề nghiên cứu của một nhóm các nhà nghiên cứu, mà còn là lịch sử gắn với tất cả người dân Việt Nam, bởi đó là chữ viết mà người Việt chúng ta dùng hằng ngày, tuy nhiên, lại ít được đề cập đến trong chương trình giáo dục ở bậc phổ thông.
Với mong muốn giới thiệu lịch sử chữ quốc ngữ một cách bình dị, dễ hiểu nhất, cuốn sách “100 câu hỏi về lịch sử chữ quốc ngữ” được trình bày dưới dạng hỏi đáp nhằm kích thích trí tò mò của độc giả. Qua trả lời cho 100 câu hỏi trong sách, tác giả đã giải thích được hoàn cảnh ra đời của chữ quốc ngữ, quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện của lối viết này đối với tiếng Việt. Điều đó không chỉ có giá trị đối với người nghiên cứu mà còn rất hữu ích cho đông đảo bạn đọc quan tâm đến vấn đề này.
Nhờ thu lượm tối đa các văn bản viết tay nguyên bản mà tác giả Phạm Thị Kiều Ly đã phục dựng lại được khá chi tiết thời kỳ đầu tạo ra chữ quốc ngữ. Hơn nữa, tác giả cũng cho thấy những mốc thời gian quan trọng như “hội nghị” đầu tiên về chữ quốc ngữ của các thừa sai ở Ma Cao (Trung Hoa) năm 1630, hay vai trò quan trọng của linh mục António de Fontes trong việc làm cầu nối của lối viết La-tinh từ Đàng Trong ra Đàng Ngoài.
Tác giả cuốn sách bắt đầu công trình của mình với những tò mò và những câu hỏi trong hành trình đi tìm chân lý khoa học và tri thức. Với nỗ lực phổ biến công trình hàn lâm về lịch sử chữ quốc ngữ bằng cách tiếp cận dưới dạng hỏi đáp, Phạm Thị Kiều Ly đặt mình vào vị trí độc giả như cách thức của Galilée trong cuốn Đối thoại về hai hệ thống chính yếu của thế giới (1632): “Để xem nếu tôi ở vị trí của độc giả, tôi sẽ hỏi gì?”
Đó có thể là câu hỏi của một người Việt trước cổng Văn miếu Quốc Tử Giám: “Vì sao trước đây người Việt lại dùng chữ Hán, chữ Nôm, mà giờ đây chúng ta lại dùng chữ viết hệ La-tinh?” Đó có thể là câu hỏi của các nhà nghiên cứu về mối liên hệ giữa chữ viết và văn hiến. Và cũng có thể là câu hỏi của một em học sinh dành cho thầy cô hoặc cha mẹ: Vì sao ta lại viết cái ca, kinh kệ trong khi âm đầu cùng là âm /k/?…
Với “100 câu hỏi về lịch sử chữ quốc ngữ”, độc giả có thể đọc lần lượt từng câu theo thứ tự hoặc đọc bất kỳ nội dung câu hỏi nào vẫn có thể nắm bắt được nội dung một cách ngắn gọn nhưng rõ ràng và đầy đủ.
Các câu trả lời trong cuốn sách cũng đi kèm theo hình ảnh tư liệu về chữ quốc ngữ để minh họa. Ngoài ra, cuối sách có bảng từ vựng, thuật ngữ.
Ý NGHĨA BÌA SÁCH
Bìa sách phác họa hình tượng một số vị thừa sai/linh mục có đóng góp lớn đối với sự hình thành chữ quốc ngữ ở Việt Nam bên cạnh các thế hệ người Việt trong ngữ cảnh đối thoại về 5 câu hỏi lớn liên quan đến lịch sử chữ quốc ngữ.
Với nội dung, cách trình bày rõ ràng, dễ hiểu, “100 câu hỏi về lịch sử chữ quốc ngữ” không chỉ là nguồn tài liệu hữu ích với các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, sinh viên ngành ngôn ngữ học, lịch sử, di sản… mà còn phù hợp với độc giả phổ thông ở mọi lứa tuổi quan tâm đến lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ,,,
Cuốn sách thuộc Tủ sách Lịch sử Văn hóa của Omega Plus.
MỤC LỤC
Lời tựa
Lời giới thiệu: Cuốn sách dưới dạng hỏi đáp nhằm kích thích trí tò mò của độc giả
Lời giới thiệu: Bản tóm tắt hành trình thăng trầm của chữ quốc ngữ
HOÀN CẢNH RA ÐỜI CỦA CHỮ QUỐC NGỮ
QUÁ TRÌNH GHI CÁC M CỦA TIẾNG VIỆT BẰNG MẪU TỰ LA-TINH
1615-1651: THỜI KỲ SÁNG TẠO
XUNG QUANH CUỐN TỪ ÐIỂN CHỮ QUỐC NGỮ ÐẦU TIÊN:
TỪ ÐIỂN VIỆT-BỒ-LA
CÁC VẤN ÐỀ XUNG QUANH CHÍNH TẢ TIẾNG VIỆT
HỘI THỪA SAI PARIS
THỜI KỲ THỰC DÂN
MỘT SỐ CÂU HỎI KHÁC LIÊN QUAN ÐẾN CHỮ QUỐC NGỮ
Từ vựng một số địa danh
Một số thuật ngữ
GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ
- Giảng viên Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Thành viên Viện Nghiên cứu Lịch sử các lý thuyết ngôn ngữ - Trung tâm nghiên cứu khoa học Quốc gia Pháp.
- Lĩnh vực nghiên cứu chính: Lịch sử chữ quốc ngữ; lịch sử chữ viết hệ La-tinh của ngôn ngữ của các dân tộc tại Việt Nam; di sản ngôn ngữ và tư liệu; ngữ học truyền giáo tại châu Á.
- Phạm Thị Kiều Ly là tác giả, đồng tác giả của 3 tác phẩm:
Đánh giá của độc giả